hachiko
Admin
| | Cung hoàng đạo : | Post : 679
| Points : 6185
| thanked : 7
| Tham gia : 09/08/2010
| Tuổi : 31
| Status : iu chồng ! :P
| Sở thích : Thík chồng :))
|
[share] 12 câu hỏi và trả lời ôn tập Đướng lối Đảng (group made) Sat Dec 17, 2011 10:45 pm
| | Câu 1: Vì sao Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản đối với VN trong những năm đầu TK 20?
- Spoiler:
ĐN: GC Vô sản là giai cấp chịu sự chi phối, bóc lột của giới tư sản, bị phụ thuộc về đới sống và kinh tế . Từ đó, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng đòi quyền bình đẳng, hay cao hơn là giành lại nhân quyền cùng quyền làm chủ trước chủ nghĩa tư bản.
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản từng bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Vậy, vì sao Bác lại lựa chọn con đường đó?
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người đã bôn ba khắp năm châu, và bước đầu có những nhận thức về bạn và thù. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.
Trong khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề khiến loài người căm gét chiến tranh thì cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình tự do cho con người.
Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách mạng nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con đường đó không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc khangs chiến chống pháp (1954) và kháng chiến chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi đúng đắn của dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho cách mạng Việt Nam không ai khác, đó là Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại. Câu 2: Tại sao ở nước ta hiện nay CNH gắn liền với HĐH mà CNH-HĐH lại gắn với phát triển tri thức . Theo anh chị cần làm gì để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
- Spoiler:
- Công Nghiệp Hóa (CNH) là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao. - Hiện đại hóa(HĐH) là quá trình sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp với công nghệ của thế giới để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH): theo tinh thần của hội nghị TW VII khóa 7, CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khao học-công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
- Nguyên nhân phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa.
Bối cảnh thế giới: từ thế kỷ XVII, XVIII các nước tây âu tiến hành công nghiệp hóa.khi đó công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sủ dụng máy móc. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu nước ta không kịp thời tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sẽ bị bỏ lại phía sau. Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của nươc phát triển sau, tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát minh. - Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nhiều nước bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri thức yêu cầu nước ta phải bắt kịp xu thế đó.
Bối cảnh trong nước: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo điều kiện để VN tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. - CNH và HĐH có sự khác biệt. Trên khía cạnh lịch sử, đây là 2 quá trình tách rời: CNH rồi đến HĐH. Sở dĩ ở Việt Nam có sự kết hợp CNH với HĐH là có nguyên nhân khách quan. Có thể nói đây không phải là đặc điểm riêng có của Việt Nam, mà là đặc điểm của các quốc gia đi sau như Việt Nam. Nguyên nhân là do: + Do trình độ của LLSX trong nước còn thấp kém. + Trong khi đó Từ những năm 80 của thế kỷ XX , nền kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ, chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức với trình độ khoa học công nghệ cao. =>Để tránh tình trạng tụt hậu, các nước đi sau như Việt Nam phải có sự kết hợp CNH và HĐH, đồng thời gắn quá trình CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức.
CNH, HĐH phải gắn liền với nền kinh tế tri thức:
- Kinh tế tri thức (Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)): là nền kinh tế trong đó có sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ở nước ta, sau 25 năm đổi mới, với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng khá; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. Nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên và lao động, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể; chưa khơi dậy và phát huy tối đa năng lực sáng tạo của con người; nền kinh tế còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền vững, đặc biệt đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Bởi vậy, để tiếp tục đưa đất nước phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc chuyển nền kinh tế sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết, không thể trì hoãn. Bỏ lỡ thời cơ lớn Việt Nam sẽ tụt hậu xã hơn và đó là hiểm họa của dân tộc. Báo cáo chính trị tại Đại Hội X của Đảng đã chỉ ra: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại."[4] Trong dự thảo dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”
Để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta thực chất là vận dụng tri thức mới, công nghệ mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị gia tăng của sản phẩm; giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu và lao động; tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm; dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá. Giải pháp có tính đột phá cho thành công của chiến lược này là giải phóng các nguồn lực, quan trong nhất là nguồn lực con người, phát huy năng lực sáng tạo đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Bởi, sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, là năng lực nội sinh của nền KTTT ngày nay. Là một nước nông nghiệp đi lên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, để phát triển nền KTTT cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và quá trình chuyển từ kinh tế nông- công nghiệp lên KTTT trong điều kiện chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đây là cả một sự nghiệp vô cùng khó khăn. Trong khi đối với các nước đi trước đó là hai quá trình kế tiếp nhau. Nền kinh tế Việt nam do đó phải theo theo mô hình kinh tế hai tốc độ, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Mặt khác đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế, phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi nhọn tạo thành đầu tàu có sức kéo lôi mạnh toàn bộ nền kinh tế đi lên[6]. Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có. Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức, nhất là công nghệ thông tin, Việt Nam có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước. Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới, công nghệ mới của thời đại kết hợp với sáng tạo tri thức mới, công nghệ mới để nhanh chong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao. Đây chính là yêu cầu và nội dung của công cuộc CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi tiến hành một cuộc đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc hơn nữa - một cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó trọng tâm là: Đổi mới tư duy và cách thức phát triển kinh tế: đổi mới giáo dục đào tạo; đổi mới các hoạt động khoa học và công nghệ;đổi mới thể chế, chính sách và cơ chế quản lý… Trong tổng thế những nội dung đổi mới toàn diện, cần tập trung trọng tâm vào việc nhận thức lại và thực hiện đúng chức năng, vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế, từ điều khiển, chỉ huy sang là “kiến trúc sư” của nền KTTT, định hướng phát triển, tạo môi trường thuận lợi và động viên mọi nguồn lực để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT Câu 3: Phân tích quy luật thành lập ĐCS VN hiện nay. Ý nghĩa của quy luật này và vấn đề xây dựng và phát triển Đảng hiện nay. (Coi thêm trong cuốn màu hồng, dọc. Ghi cái j` thì ghi)
- Spoiler:
- Quy luật ra đời của các ĐCS trên thế giới theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lenin: - Trích dẫn :
- Đảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác - Lenin + phong trào công nhân.
- Quy luật ra đời của Đảng cộng sản VN theo quan điểm của HCM: - Trích dẫn :
- ĐCSVN = Chủ nghĩa Mác - Lenin + Phong trào công nhân + Phong trào yêu nước VN
Phân tích các yếu tố đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam 1.Chủ nghĩa Mác-Lênin : - Những tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh những người Việt Nam hướng theo con đường cách mạng đúng đắn đó là con đường cách mạng vô sản. - Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng chủ nghĩa xã hội xác định đúng vấn đề động lực cách mạng liên minh giai cấp vị trí of cách mạng thuộc địa. - Đó là cơ sở lí luận cho cương lĩnh cách mạng của Đảng sau này. Nhờ có chủ nghĩa Mác-Lênin mà phong trào công nhân đã chuyển từ "tự phát" sang "tự giác". 2. Phong trào công nhân. Từ đầu thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức, bóc lột của tư sản, thực dân cũng diễn ra từ rất sớm. - Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào công nhân chưa trở thành lực lượng riêng biệt còn hoà lẫn với phong trào yêu nước. Sự phát triển của phong trào công nhân trong nước đã khẳng định sự lớn lên trong nhận thức tư tưởng của GCCN về cách mạng giải phóng dân tộc VN. Như vậy phong trào công nhân ngày 1 trưởng thành là 1 trong những điều kiện tất yếu dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản VN. 3. Phong trào yêu nước. - Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành từ rất sớm, có nền văn hiến lâu đời, trong đó yêu nước là truyền thống quý báu và đặc sắc, là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc VN. - Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta (năm 1858), nhân dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. - Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự nối tiếp truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử (Ví dụ một số phong trào). - Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử dân tộc ta, có vai trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các phong trào cách mạng Việt Nam. Vì vậy, phong trào yêu nước cùng với phong trào công nhân là những yếu tố đóng vai trò cơ sở thực tiễn cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. * Phân tích yếu tố riêng biệt trong quy luật ra đời của ĐCSVN - Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của lịch sử của dân tộc. + Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của nước ta. + Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân. - Phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối liên hệ chặt chẽ: + Hầu hết công nhân đều xuất thân từ nông dân + Có chung kẻ thù: Bọn thực dân Pháp và phong kiến tay sai - Phong trào yêu nước có tác động đến việc truyền bá Chủ nghĩa Mac-lenin và sự phát triển của phong trào công nhân: Bản thân Nguyễn Ái Quốc cũng xuất phát từ tinh thần yêu nước đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc, Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin Năm 1930 ở VN có 3 yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn đó đã đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách mạng. Ý nghĩa của quy luật này và vấn đề xây dựng và phát triển đảng hiện nay (cái này ko phải ý nghĩa quy luật mà là ý nghĩa sự ra đời ) - Giúp đảng ta lãnh đạo nhân dân xd thành công 1 nước VN XHCN.” dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh”. - Phải dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa mac Lenin và tư tưởng hồ chí minh để đánh giá đúng đắn tính chất, hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xd, phát triển đất nước, dám nhìn thẳng vào những gì sai lầm để khắc phục và hoạch định cho sự phát triển đi lên. - Trong công cuộc đổi mới đảng ta đã lấy chủ nghĩa mac-lenin và tư tưởng hồ chí minh làm kim chỉ nan chỉ đạo mọi hoạt động của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta. - Nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh lại là hệ thống những quan điểm lí luận cơ bản về chiến lược, sách lược, phương châm, phương pháp của cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đến chủ nghĩa xã hội, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Câu 4: Nêu sự thay đổi cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong thời kỳ CNH-HĐH hiện nay ở VN? Đẩy mạnh phát triển ngành thương mại có tác dụng gì với CNH-HĐH.
- Spoiler:
Nêu sự thay đổi cơ cấu công nghiệp,nông nghiệp, dịch vụ trong thời kỳ CNH, HDH hiện nay ở VN. Tỷ trọng CN và XD tăng, tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản giảm(gd 2001-2005 tỷ trọng CN và XD tăng 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005; tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn 20.9% năm 2005) trong từng ngành kt đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sx, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất vơi thị trường. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ,tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm đã khai thác được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại. ản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Nhìn vào kết quả chuyển dịch cơ cấu nghành kt trong thời gian qua ta có thể nhận thấy những vấn đề sau: -Trong khi tỷ trọng NN giảm dần qua các năm. nước ta vẫn vươn lên, từ một quốc gia thiếu lương thực, phải nhập khẩu thì giờ đây đã và đang là nc xuất khẩu khá , từng bước thành một nước đảm bảo an ninh lương thực trên TG. Chính sự phát triển vững chắc của ngành nông nghiệp đã tạo đk chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực. -Tăng tỷ trọng nganh CN,DV, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kt ngành nước ta -Tốc độ tăng trưởng bình quan của các nhóm nghành lớn của nền kt cũng khác nhau tăn trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm nghành CN, sau đến dịch vụ và thấp nhất là NN -Không chỉ thay đổi tỷ trọng và tốc độ của CN,NN,DV trong cơ cấu chung của nền kt tế mà cần phải tạo ra sự thay đổi về chất lượng cơ cấu và trình độ phát triển từng ngành +NN phải chuyển từ độc canh sang đa dạng hóa theo hướng sx lớn, có năng xuất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao + CN chuyển từ khai thác và sơ chế thấp sang nền CN đa dạng ngành và có hiệu quả kt –xh cao, trong đó CN chế biến cần đc phát triển nhanh hơn các ngành khác. + DV phát triển có hệ thống , theo hướng văn minh hiện đại. Đẩy mạnh ngành Thương Mại có tác dụng gì đến CNH, HDH Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: - Góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế - Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như dịch vụ khoa học, kỹ thuật công nghệ. - Sự phát triển là động lực cho sự phát triển kinh tế, cũng như có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội. Nền kinh tế càng phát triển thì thương mại và dịch vụ càng phong phú, đa dạng. Hiện nay, sự phát triển thương mại và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. - Góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội. - Là cầu nối gắn kết giữa thị trường trong nước với thị trường ngoài nước, phù họp với xu thếhội nhập và mở cửa ở nước ta hiện nay. - Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, dịch vụ - thương mại góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước, đặc biệt là khi Việt Nam đã bình thường hóa về thương mại với Hoa Kỳ và gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nghị quyết Đại hội X của đảng ta đã khẳng định:... Về kinh tế, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH, HĐH được đẩy mạnh... với những bước đi đó Việt Nam đã hội nhập vào khu vực thị trường rộng lớn, có tình cạnh tranh cao và gồm những đối tác có năng lực cạnh tranh rất mạnh... những thành quả này vừa tạo ra các tiền đề và cơ sở kinh tế, vừa cung cấp những bài học cần thiết để chúng ta thực hiện bước hội nhập mới có tầm quan trọng đặc biệt - hội nhập ở cấp độ đa phương - toàn cầu trong Tổ chức Thương mại thế giới. Câu 5: Phân tích phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện lâu dài và dựa vào sức mình là chính? Ý nghĩa của phương châm.
- Spoiler:
- Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thượng vụ Trung ương Đảng và được giải thích cụ thể trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Toàn dân: Kháng chiến toàn dân : - Cuộc kháng chiến của ta được Đảng nêu ra ngay từ đầu là một cuộc kháng chiến toàn dân. Với phương châm “đánh lâu dài”, ta có thời gian để tổ chức, động viên nhân dân tham gia kháng chiến. Ta càng đánh thì lực lượng nhân dân ta càng mạnh, đồng thời nếu không động viên để toàn dân tham gia thì không thể có lực lượng đánh lâu dài. - Muốn phát huy sức mạnh toàn dân kháng chiến phải đánh lâu dài, muốn có lực lượng đánh lâu dài phải huy động toàn dân tham gia kháng chiến, bất kỳ đàn ông, đàn bà, ko chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là ng Vn thì phải đứng lên đánh TDP, thực hiện mỗi người dân là 1 chiến sĩ, mỗi làng xóm là 1 pháo đài.
+ Toàn diện: Kháng chiến toàn diện : - Muốn làm cho khẩu hiệu “ toàn dân kháng chiến” có nội dung thực sự thì cuộc kháng chiến phải tiến hành trên cáclĩnh vực : quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá ... Thông qua những hình thức của cuộc kháng chiến toàn diện như thế thì toàn dân ta mới phát huy được hết năng lực của mình trong cuộc kháng chiến. - Pháp không những đánh ta về quân sự mà còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hoá ..., cho nên ta không những phải kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải đánh bại mọi âm mưu phá hoại về kinh tế và chính trị của chúng phải kháng chiến toàn diện.đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. *Chính trị: thực hiện đk toàn dân, tăng cường xd Đ, CQ, các đoàn thể ND. ĐK với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. *Quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xd lực lượng VTND, tiêu diệt địch, giải phóng ND và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy “Triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, k/c lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ.” *Kinh tế: Tiêu thổ k/c, xd KT tự cung tự túc, tập trung phát triển NN, TCN, TN và CNQP. *Văn hoá: xoá bỏ VHTD, PK, xd nền VHDC mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. *Ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực, liên hiệp với DTP, chống phản động TDP, sẵn sàng đàm phán nếu P công nhận VN độc lập. + Trường kỳ: Kháng chiến lâu dài : - Đây là một chủ trương vô cùng sáng suốt của Đảng ta, dựa trên sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh của nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp một cách khoa học, không hề khiếp nhược trước vũ khí của kẻ thù. Đồng thời cũng kế thừa và phát triển truyền thống “ lấy yếu chống mạnh”, “ lấy chính nghĩa thắng hung tàn”. - Lúc đầu địch mạnh hơn ta về vật chất, vũ khí, nhưng ta có ưu thế tuyệt đối về tinh thần chính trị. Chỗ mạnh của ta là rất cơ bản, có thể lấy tinh thần chính trị khắc phục khó khăn về vật chất, nên ta càng đánh mạnh, càng đánh càng thắng. - Chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của TDP, có thời gian phát huy yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà của ta, chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. +Dựa vào sức mình là chính: Kháng chiến dựa vào sức mình là chính : - Ta rất coi trọng những thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo đúng phương châm kháng chiến của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm. - Ta có nỗ lực chủ quan mới sử dụng và phát huy được hết sức mạnh của mình. Nếu không dựa vào sức mạnh là chính thì không thể đánh lâu dài được. - Đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện một cách sinh động và phong phú trong thực tiễn kháng chiến của quân và dân ta trên tất cả mọi hoạt động, đã đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. - Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt vì ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có đk ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước song cũng ko được ỷ lại.
=> Bốn mặt trên đây của đường lối kháng chiến là một thể thống nhất có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Đường lối kháng chiến đúng đắn đó được tiếp tục bổ sung trong suốt quá trình của cuộc kháng chiến, đã có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc cách mạng. Ý nghĩa: - Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với thực tiễn đất nước lúc bấy giờ. - Đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của đảng (1946-1954) đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nhân dân ta nhanh chóng phát triển đúng hướng. Giúp cho quan và dân ta chiến đấu và chiến thắng trong cuôc kháng chiến chống pháp và can thiệp mỹ mà tiêu biểu là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu Câu 6: Vai trò của đối ngoại trong việc giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Spoiler:
- Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”,” tôn giáo” không can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị ở VN. - Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. - Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. - Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. - --- Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. - Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Được sửa bởi hachiko ngày Sat Dec 17, 2011 10:46 pm; sửa lần 1. |
| hachiko
Admin
| | Cung hoàng đạo : | Post : 679
| Points : 6185
| thanked : 7
| Tham gia : 09/08/2010
| Tuổi : 31
| Status : iu chồng ! :P
| Sở thích : Thík chồng :))
|
Re: [share] 12 câu hỏi và trả lời ôn tập Đướng lối Đảng (group made) Sat Dec 17, 2011 10:46 pm
| | Câu 7: Phân tích chủ trương hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường. Thực trạng giải quyết chủ trương này của VN?
- Spoiler:
- Thực hiện chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và các căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần chỉ là một chính sách từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. Đó là các chính sách giao quyền sử dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ về giáo dục và y tế, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát huy quyền làm chủ cho người nghèo và cộng đồng nghèo để giúp họ tự vương lên thoát nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các thành phần dân tộc, các vùng miền trong cả nước. - Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới" gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những người về hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người gặp rủi ro bất hạnh và đặc biệt là những người có công với nước. + Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội. - Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát triển bền vững. Đây còn là tiêu chí thể hiện bản chất của chế độ ta. Sự bất bình đẳng và phân hoá giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít các quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hoá giàu nghèo, chủ yếu thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. - Tập trung sức phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. - Tập trung chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ và huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để bảo đảm đạt được những chuyển biến rõ rệt, vững chắc trong công tác phòng chống tham nhũng, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông. - Hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm, xử lý triệt để những ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ngăn chặn không để phát sinh thêm. Bảo vệ và cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững. Môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, đất bị xói mòn và tình trạng sa mạc hoá, biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng… làm thu hẹp không gian sinh tồn của con người chẳng những tác động tiêu cực đến cuộc sống hiện tại mà còn đe doạ sự phát triển của các thế hệ tương lai - Đối với nước ta, tình trạng ô nhiễm môi trường và những nguy cơ do biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những thách thức to lớn. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối phó với hiểm họa nước biển dâng; sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, phát triển kinh tế xanh là nội dung có tác động mạnh nhất đến phát triển bền vững, phải được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như trong từng lĩnh vực, ở từng địa phương, đơn vị. Thực trạng giải quyết chủ trương này ở VN Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, xã hội cởi mở và đồng thuận hơn. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo ra những tiền đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong sự phát triển cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế; lãng phí, thất thoát còn nhiều; hiệu quả đầu tư thấp. Tiêu hao nguyên liệu, năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa thật hợp lý và tiết kiệm. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại còn lớn, lạm phát còn cao. Môi trường sinh thái nhiều nơi bị ô nhiễm nặng. Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; đòi hỏi phải tạo được sự chuyển biến có tính cách mạng, thấu suốt về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch, kế hoạch, dự án và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt ở tất cả các ngành, các cấp với sự đồng thuận tham gia của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và mọi người dân trong cả nước. Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sự điều hành có hiệu quả của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, nhất định đất nước ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững.
Cách 2:
Phân tích chủ trương” hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường . thực trạng giải quyết vấn đề này ở VN” - Đại hội VIII của Đảng đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”(1). Tiếp đến Đại hội X tái khẳng định quan điểm: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”(2). - Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là những phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. + Một chính sách kinh tế tốt là một chính sách vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, vừa đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, hướng vào mục tiêu phát triển con người và lành mạnh hoá xã hội . + Ngược lại, một chính sách xã hội tích cực là một chính sách phù hợp với khả năng của nền kinh tế, dựa trên cơ sở của tăng trưởng kinh tế, tạo sự ổn định và động lực cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. - Từ nhận thức và quan điểm chung trên đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ chương, cơ chế, chính sách, giải pháp về kinh tế và xã hội để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, vừa đảm bảo an sinh xã hội: - Chính sách khuyến khích làm giàu đồng thời tích cực giảm nghèo đặc biệt là miền núi, dân tộc.. - Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt. Phát triển các tổ chức tự nguyện , nhân đạo, hoạt đọng phi lợi nhuận. - Hoàn thiện luật pháp , chinch sách bảo vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh để xử lý các hành vi hủy hoại môi trường.
Thực trạng giải quyết chủ trương này: 1) Đạt được: - Về kinh tế: + Nhìn lại 10 năm qua, nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao và phát triển tương đối toàn diện. Tốc độ tăng GDP đạt bình quân 7,27%/năm; năm 2009 GDP bình quân đầu người đạt 1064 USD, dự kiến năm 2010 đạt 1200USD. + Nguồn nhân lực không ngừng phát triển năm 2009, lao động qua đào tạo đạt 38%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 29%. + Tăng trưởng việc làm hằng năm trên 2,5%, bình quân mỗi năm tạo thêm 1,6 triệu chỗ làm việc mới, thất nghiệp thành thị có xu hướng giảm liên tục, còn 4,57%. + Theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới tính cho Việt Nam, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,5 % năm 2008, trong 13 năm, đã giảm gần ¾ hộ nghèo. =>Tồn tại, hạn chế: - Tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa bền vững, tăng trưởng chưa gắn chặt với giảm nghèo: tình trạng thiếu việc làm và thu nhập thấp của lao động nông thôn rất nghiêm ,các dịch vụ y tế và giáo dục, vệ sinh, môi trường, an ninh, văn hoá... chưa được quan tâm đúng mức. + Giảm nghèo chưa bền vững.: tỷ lệ tái nghèo còn cao, khoảng 7%-10 %; ở một số vùng hộ nghèo còn rất cao, nhất là vùng miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, chênh lệch giàu nghèo còn cao… - Về xã hội: + Người có công được Nhà nước và toàn xã hội chăm sóc tốt hơn về vật chất và tinh thần, được tôn vinh, đời sống ổn định và từng bước được cải thiện. + Hệ thống an sinh xã hội từng bước hoàn thiện hơn, đối tượng được mở rộng, chất lượng cung cấp dịch vụ an sinh xã hội ngày càng được nâng cao. Hơn 9,4 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 53 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, 80% đối tượng thuộc diện trợ giúp xã hội được hưởng trợ cấp xã hội của Nhà nước. + Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em ngày càng được coi trọng: giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ trẻ em đến trường và được phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở; trẻ em khó khăn và có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm, chăm sóc và hoà nhập cộng đồng. + Bình đẳng giới được coi trọng.: Phụ nữ chiếm 49,4% trong tổng lực lượng lao động có việc làm; tỷ lệ lao động nữ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong các lĩnh vực đạt trên 47%; tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận dịch vụ y tế đạt 85% =>Tồn tại, hạn chế: - Tình hình vi phạm quyền trẻ em đang xảy ra ở nhiều nơi: Trẻ em bị tai nạn thương tích, bạo hành, bị buôn bán, xâm hại. + Khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, vùng còn lớn; định kiến giới vẫn tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội. + Tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp và đang gia tăng, đặc biệt là tệ nạn ma tuý, mại dâm. - Về môi trường: +Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi (năm 2005) đã được ban hành. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. + Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường được tăng cường. Tổng cục Môi trường được thành lập;lực lượng cảnh sát môi trường được hình thành; Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực các sông lớn, tổ chức quản lý môi trường ở các Bộ, ngành và địa phương, nhất là Chi cục Bảo vệ môi trường được thiết lập, bước đầu hoạt động có hiệu quả. => Tồn tại, hạn chế: - Vẫn còn nhiều hiện tượng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như: công ty VEDAN gây ô nhiễm sông Thị Vải…. - Chế tài xử phạt chưa nghiêm khắc còn nhiều sơ hở… Câu 8: Phân tích quan điểm “hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường” trong thể chế kinh tế thị trường ở VN. Nêu thực trạng thực hiện quan niệm trên?
- Spoiler:
Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thông các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường. Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường và tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ và xử lý sai phạm. Phát huy tốt vai trò điều hành thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa kiểm soát lạm phát và từng bước mở rộng thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cho phù hợp với cam kết quốc tế. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường. Tạo điều kiên phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm theo cam kết hội nhập quốc tế. Hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách để các quyền về đất đai và bất động sản vận động theo cơ chế thị trường. Hoàn thiện luật pháp chính sách về tiền lương, tiền công, trong đó tiền lương phải được coi là giá cả của sức lao động hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung cầu về sức lao động. - Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế chính sách quản lý, hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ. Nhà nước tăng đầu tư và đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa cho các ngành giáo dục,y tế, văn hóa, thể dục, thể thao. Điều quan trọng hàng đầu, là phải nhận thức đúng đắn về tính phổ biến và tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; để trên cơ sở đó, hoàn thiện khung khổ pháp lý, nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế phù hợp với quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường, cũng như để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Theo đó, mặc dù nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được nhận thức là một hình thái kinh tế thị trường đặc biệt, có nét đặc thù là “được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” Thứ hai: tiếp tục thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; đảm bảo mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng. Thứ ba, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường . Để vừa bảo vệ thị trường nội địa, vừa bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, nhất là trong điều kiện chúng ta đến thời hạn mở cửa thị trường theo lộ trình đã cam kết với quốc tế, Đại hội XI nhấn mạnh sự cần thiết phải sớm hoàn thành việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, tuân thủ những quy định của các tổ chức quốc tế và khu vực mà nước ta tham gia. Điểm nhấn trong Đại hội XI, là Đảng khẳng định phải hoàn thiện thể chế về giá theo hướng: thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; đồng thời, có cơ chế kiểm soát cạnh tranh và độc quyền trên tất cả các loại thị trường: hàng hóa, dịch vụ, tài chính, đất đai, khoa học, công nghệ và thị trường lao động bình đẳng, lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thứ tư, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường hướng xã hội chủ nghĩa . Điểm nhấn quan trọng trong các văn kiện của Đại hội XI về vấn đề này, là khẳng định sự cần thiết phải “giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường”. Theo đó, Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu củachủ nghĩa xã hội, bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết khác, nhưng “trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường”; Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, vừa không phó mặc cho thị trường, vừa không tùy tiện can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường, không lẫn lộn chức năng quản lý kinh tế nhà nước với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước được nâng cao theo đúng những định hướng mà Đại hội XI xác định, sẽ là nhân tố vừa bảo đảm cho nền kinh tế được vận hành trôi chảy theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, vừa bảo đảm hiện thực hóa được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội một cách bền vững. Câu 9: Vì sao CNH-HĐH ở VN chú trọng yếu tố nguồn nhân lực là yếu tố căn bản và bền vững? Liên hệ thực tiễn VN.
- Spoiler:
- Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. - Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng. - Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người,phát triển Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.. - Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL đặc biệt là NNL CLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. - Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế, chi phối qt phát triển kt-xh.''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". - Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. - Thứ hai là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững. - Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.
Liên hệ thực tiễn: Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những băn khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng người lao động, sự bất hợp lý về phân công lao động được đào tạo trong các lĩnh vực sản xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ. Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm 10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% có trình độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng kể lo ngại và đau đầu nhất của nhà nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta 8% dân số mù chữ, chưa phổ cập được giáo dục tiểu học. Mặt khác người lao động Việt Nam còn hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư 56,4. Cấp viện trưởng là 55 (số liệu này cho tới nay đã thay đổi). Như vậy đến năm 2001 hơn 80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên sự hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận. Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên phải chăng chúng ta đã quá thừa những người có học vấn chắc chắn là không. Sự thừa đó chính là tác động của mặt trái của kinh tế thị trường Việc sử dụng và khai thác số lao động, đã được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Câu 10: Phân tích định nghĩa CNH-HĐH ở đại hội 7, hội họp quốc tế sâu rộng có ý nghĩa gì đối với quá trình CNH-HĐH?
- Spoiler:
Hội nghị TW lần thứ 7 khóa 7 đã có bước đột phá mới trong nhận thức về khái niệm cnh- hdh CNH- HĐH là qt chuyển đổi căn bản , toàn diện các hoạt động sx, kinh doanh, dv và qlý kt, xh từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một các phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ KH-CN, tạo ra năng suất lao động Xh cao CNH là qt phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân đc động viên để ptcơ cấu kt nhiều ngành ở trong nc với kỹ thuật hiện đại. đặc điểm của cơ cấu kt này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sx ra những tư lieu sx và hàng tiêu dung, có khả năng đảm bảo chotoàn bộ nền kt phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kt xh HDH là qt sd công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp với công nghệ của TG để chuyển đổi cơ cấu kt, tạo ra năng suất lao động XH cao Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Phải tiến hành CNH gắn với hiện đại hóa : -Nc ta là nc nông nghiệp lạc hậu nghèo nàn, kém pt, lại bị ct phá hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trc đây dẫn đến nền kt bị tụt hậu so với TG, điều đó đòi hỏi nc ta phải tiến hành CNH -Bối cảnh TG: sự phát triển như vũ bão của KH CN, nếu nc ta không kịp thời tiến hành CNH,HDH thì sẽ bị bỏ lại phía sau, tiếp thu dc công nghệ mà không phải bỏ công sức ra tìm tòi phát minh -Qt toàn cầu hóa, hội nhập kt quốc tế sâu rộng, số nc bắt đầu chuyển sang nền kt tri thức yêu cầu nc ta phải bắt kịp xu thế đó.
Hội nhập quôc tế sâu rộng có ý nghĩa gì tới quá trình CNH-HDH ở Việt Nam (chung chung): Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm (i) toàn cầu hoá kinh tế, (ii) phát triển kinh tế tri thức, và (iii) hoà bình,ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,… của thế giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế. Hội nhập quôc tế sâu rộng có ý nghĩa gì tới quá trình CNH-HDH ở Việt Nam (mở rộng): Những thập niên gần đây, tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc của cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã dẫn tới sự phát triển mang tính nhảy vọt trong xã hội; trong lực lượng sản xuất; thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế phát triển và trở thành một xu thế tất yếu của thời đại. Trong bối cảnh đó nước ta đã tham gia hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nhờ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với tinh thần chủ động, tích cực mà nước ta có thêm nhiều thời cơ và điều kiện thuận lợi như: - Mở rộng xuất khẩu hàng hóa vào thị trường thế giới, nhất là vào thị trường các thành viên khác của WTO với tư cách là một đối tác bình đẳng, từ đó khai thác được những tiềm năng, lợi thế của đất nước. - Đẩy nhanh quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện, môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng thông thoáng, minh bạch. Các yếu tố này cùng với khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo ra triển vọng và động lực mới cho đầu tư trong và ngoài nước gia tăng. Nhờ đó nhiều tiềm năng, lợi thế kinh tế của nước ta được phát huy. - Thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ ở trong nước và học tập, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm công nghệ, tri thức từ bên ngoài và sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế để xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại, công khai, minh bạch cũng như trong chính sách kinh tế và cơ chế quản lý. Tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân được khởi dậy mạnh mẽ; ... - Tham gia vào các quá trình và thực hiện vai trò của một thành viên có địa vị bình đẳng như các thành viên khác. Thông qua đó Việt Nam được tham gia hoạch định chính sách thương mại toàn cầu theo hướng trật tự và công bằng hơn; bảo vệ tốt hơn lợi ích kinh tế của đất nước, của doanh nghiệp và người lao động. - Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, phát huy vai trò ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong tiến trình hội nhập, sự bảo hộ của Nhà nước đối với doanh nghiệp sẽ phải giảm dần theo các cam kết quốc tế, làm gia tăng mạnh mẽ áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, đây là một thách thức rất lớn, nhưng cũng là cơ hội để doanh nghiệp tự vươn lên khẳng định mình. Bởi vì, việc giảm bớt sự bảo hộ của Nhà nước sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đổi mới quản lý, công nghệ, cải tiến sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh mới có thể tồn tại trên thị trường. Các doanh nghiệp có được môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định kể cả trên thị trường thế giới và trong nước. Các nguyên tắc, quy định của các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế đều bảo đảm cho các doanh nghiệp có được cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu, đầu tư và sản xuất, kinh doanh với các điều kiện ổn định, minh bạch và có khả năng dự đoán trước. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ, kỹ thuật hiện đại, học hỏi những kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh tiên tiến của các nước, từ đó góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất kinh doanh). Câu 11: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập ĐCS VN?
- Spoiler:
- tìm ra con đựờng cứu nước giải phóng dân tộc - chuẩn bị tư tưởng, chính trị tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng cộng sản - Nguyễn Ái Quốc sáng lập ĐCS VN
Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc:
+ Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn: Nhận thức được bản chất của chủ nghĩa Đế quốc và sức mạnh đoàn kết của nhân dân các thuộc địa là cơ sở đầu tiên để Nguyễn Ái Quốc lựa chọn đúng đắn con đường cứu nước. Từ việc tìm hiểu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc nhận ra chân lý: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Tháng 7/1920 – Nguyễn Ái Quốc đọc được bản sơ thảo “ những luận cương về vấn đề đan tộc và thuộc địa” của Lênin và tìm thấy lời giải cho con đường giải phóng dân tộc Việt Nam và về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng thế giới. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc: từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
+ Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng: -Về tư tưởng : + Xúc tiến truyền bà chủ nghĩa Mác Lênin, vạch phương hướng chiến lược CMVN và chuẩn bị đk thành lập ĐCSVN thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Vạch trần tội ác của thực dân Pháp với cái vỏ bọc của khai hóa văn minh từ đó khơi dậy tinh thần yêu nước và thức tỉnh nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp. + 11/1924 đến Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 6/1925, lập hội VNCMTN. Kết hợp nhiệm vụ quốc tế với nhiệm vụ dân tộc . bằng nhiều con đường, người đã truyền bá M-Lenin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nd VN. đây là sự chuẩn bị về tư tưởng , lý luận cho quá trình thành lập đảng -Về tổ chức : +Từ 1925-1927. thành lập hội việt nam cách mạng thanh niên tại Quảng châu TQ. HVNCMTN đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ CMVN, xây dựng nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế chính trị trong nước. Năm 1928 thực hiện chủ trương vô sản hoá để truyền bá CN M-L và lý luận GPDT vào CN. + Lựa chọn những thanh niên VN ưu tú gửi đi học tại trường đại học Phương Đông LX và trường quân sự Hoàng Phố TQ nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ CM cho VN. + Tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá CN M-L vào VN, thức tỉnh và giác ngộ quần chúng. + 1927, Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa bị áp bức xuất bản tác phẩm Đường kách mệnh. Tác phẩm đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh CT, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập ĐCSVN. -Về chính trị: NAQ đã hình thành một hệ thống quan điểm chính trj trong tác phẩm ‘đường cách mệnh’ §Tính chất và nhiệm vụ CMVN: là cách mạng GPDT mở đường tiến lên CNXH. § Chỉ rõ bản chất thực dân là kẻ thù chung của thuộc địa cảu giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới § Lực lượng CM: CM là việc chung của dân chúng, phải đoàn kết toàn dân, trong đó “công nông là gốc cách mệnh...” § CM muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo... § ĐK quốc tế: “cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới...” §Phương pháp CM: phải giác ngộ, tổ chức quần chúng § ĐCM có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với CMVN
+ Nguyễn Ái Quốc sáng lập ĐCS VN: Cuối năm 1929, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. - Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã đả kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào cách mạng đang lên. - Từ 3 - 2 đến 7 - 2 - 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc). Người chủ trì hội nghị và đã phân tích những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ chức cộng sản và tác hại của nó. Do yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã thống nhất được các tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách mạng Việt Nam (đây chính là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam).
ý nghĩa của việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam: - Kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. - Sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. - Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển sang tay giai cấp công nhân. ĐCSVN được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. - Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. - ĐCSVN ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của lịch sử. Câu 12: Phân tích chủ trương đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Đảng ta. Sinh viên hiện nay cần làm gì để thực hiện tốt chủ trương đó.
- Spoiler:
- Đảng ta nêu rõ nhiệm vụ là chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020. - Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược, khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức rủi ro khi nước ta là thành viên của tổ chức Thương mại WTO. - Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư. - Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. - Đẩy mạnh công tác văn hóa- thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tính hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngọai vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt. - Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lí tập trung của nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, đối ngoại, quốc phòng và an ninh, thông tin đối ngoại và thông tin trong nước. - Hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần quan trọng để phát triển quan hệ hữu nghị giữa đất nước ta và nhân dân các nước. Mục tiêu của ngoại giao nhân dân nhằm thúc đẩy giao lưu giữa các dân tộc, làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ ta hơn, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và hợp tác rộng rãi của nhân dân các nước đối với nhân dân ta, đồng thời góp phần thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. - Để đẩy mạnh hoạt động đối ngoại trong 2 giai đoạn mới, cần đẩy mạnh công tác thông tin phục vụ nghiên cứu, làm tốt công tác dự báo tình hình khu vực và trên thế giới, kịp thời có những chủ trương chính sách thích hợp khi tình hình thay đổi, tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại vcaf văn hóa đối ngoại. Để chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta cần thực hiện những yêu cầu cơ bản như sau: - Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. - Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân; mọi tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của mọi người dân, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. - Cần linh hoạt trong xử lý tính hai mặt của quá trình chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tùy theo đối tác, tùy theo vấn đề, trường hợp và thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng chần chừ, do dự, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng, thiếu sự cân nhắc cẩn trọng. - Không ngừng bổ sung, hoàn thiện chiến lược, quy hoạch, lộ trình, đảm bảo vừa phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập theo quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường hiện đại. - Kết hợp chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng; thông qua chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước; nhằm củng cố chủ quyền và an ninh quốc gia, cảnh giác với những mưu toan của các thế lực thù địch thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta để thực hiện ý đồ “diễn biến hòa bình”.
Sinh viên hiện nay cần làm gì để thực hiện tốt chủ trương đó. - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. - Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản. - Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
|
|
»»»»»»»»» HÃY CÙNG CHIA SẺ VỚI BẠN BÈ BẰNG CÁCH ««««««««« Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè! |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
GMT +7. Hôm nay: Tue Mar 19, 2024 7:49 pm
|
|
|
|